top of page

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với tình trạng đơn hàng lao dốc

Mặc dù được hưởng lợi lớn từ việc đồng đô la Mỹ tăng giá so với đồng Việt Nam, nhưng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực da giày, dệt may và gỗ đang phải đối mặt với tình trạng đơn hàng sụt giảm mạnh.


Nhiều công ty trong số này đang cắt giảm quy mô hoặc thậm chí đình chỉ sản xuất và sa thải nhân viên của họ.


Nhiều chuyên gia dự báo tình hình có thể kéo dài đến năm 2023, do đó, các doanh nghiệp cần chuẩn bị các phương án ứng phó dài hạn, nhanh chóng giảm chi phí sản xuất, mở rộng ra nhiều thị trường hơn, nhất là các thị trường ổn định, lạm phát thấp.


Áp lực đơn hàng giảm mạnh


Ông Vũ Hoàng Minh, Giám đốc một công ty giày da tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết mặc dù công ty của ông đã giảm 20% lực lượng lao động với tổng số 150 người xuống 20%, nhưng họ đang tìm cách cắt giảm thêm 20% do thiếu đơn hàng trầm trọng.


“Hơn một tháng qua, chúng tôi đã yêu cầu công nhân luân phiên nhau làm nhưng chi phí không giảm nhiều. Ngân sách lương hơn 1 tỷ đồng [40.268 USD] mỗi tháng là gánh nặng khi đơn hàng giảm tới 40%, ”Minh chia sẻ.


Ông Nguyễn Văn Khánh, Phó chủ tịch Hiệp hội Da giày Thành phố Hồ Chí Minh, nói với báo Tuổi Trẻ rằng nhiều doanh nghiệp trong ngành đang phải đối mặt với áp lực cao do đơn hàng giảm mạnh.


Đặc biệt, xuất khẩu giày và da đã giảm ít nhất 30% so với thời kỳ bình thường.


Hoa Kỳ và Châu Âu, những nước nhập khẩu khoảng 60-70% giày da của Việt Nam, báo cáo nhập khẩu giảm mạnh do người tiêu dùng ở đó thắt chặt ngân sách của họ.


“Nhiều đối tác đã tạm ngừng nhập khẩu do hàng tồn kho cao. Một số đã cam kết sẽ tiếp tục nhập hàng sau khi bán hết hàng tồn kho, nhưng khi nào họ có thể bán hết hàng tồn kho thì chưa biết ”, ông Khánh cho biết thêm.


“Những khó khăn này buộc nhiều doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng”.


Đại diện Hiệp hội Dệt may - Thêu đan Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ quan điểm và cho biết các đơn đặt hàng đã ổn định vào tháng 9 do các hợp đồng đã được ký kết trước đó.


Trên thực tế, nhu cầu của thị trường toàn cầu đã giảm liên tục kể từ cuối tháng 7, đặc biệt là ở Hoa Kỳ và Châu Âu.


“Vào thời điểm này của những năm trước, đối tác đã đặt hàng cho năm sau, nhưng số lượng đặt hàng cho năm sau vẫn ở mức khiêm tốn”, vị đại diện này cho biết.


“Trong quý cuối năm nay và có thể là quý đầu năm sau, ngành dệt may sẽ gặp nhiều khó khăn và nhiều doanh nghiệp có khả năng giảm một nửa đơn hàng”.


Vị đại diện cho biết thêm, một số doanh nghiệp nhỏ với hàng trăm lao động trở xuống có thể đứng trước bờ vực đóng cửa do thiếu vốn.


Tương tự, số lượng đơn đặt hàng nhiều mặt hàng lương thực, thực phẩm cũng đang giảm dần.


Bạch Khánh Nhựt, Phó chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam, nói với Tuổi Trẻ rằng mặc dù giá trị đồng đô la cao hơn, nhu cầu của thị trường toàn cầu đã giảm ít nhất 20-25 phần trăm, khiến ngành điều địa phương đối mặt với một thời kỳ ảm đạm.


Do bất ổn chính trị toàn cầu và lạm phát cao, tiêu thụ ở các thị trường lớn, chẳng hạn như Hoa Kỳ và châu Âu, chiếm khoảng 30 và 25%, tương ứng, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam, đã giảm.


Người tiêu dùng không chi tiêu vào các mặt hàng không cần thiết, chẳng hạn như hạt điều.


Trong khi đó, việc xuất khẩu hạt điều sang Trung Quốc, chiếm một phần tư lượng hạt điều xuất khẩu của Việt Nam, đã gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.


“Mặc dù được hưởng lợi từ tỷ giá, nhưng khó khăn nhiều hơn là thuận lợi khi đơn hàng giảm. Ngành điều sẽ ảm đạm trong những tháng tới do giá bán khó có thể tăng trở lại ”, ông Nhựt nói.


“Khó khăn có thể còn kéo dài cho đến năm sau nếu lạm phát không giảm”.


Trong khi đó, đại diện Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam cho biết nhu cầu giảm khiến giá tiêu giảm 30.000 đồng (1,2 USD) xuống 56.500 đồng (2,3 USD) / kg so với đầu năm nay. Đây là mức giá thấp nhất trong năm qua nhưng có thể sẽ giảm sâu hơn nữa.


“Lạm phát và lãi suất cao ở nhiều nước, đặc biệt là Hoa Kỳ, nước nhập khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam, đã buộc nhiều khách hàng phải giảm nhập khẩu hạt tiêu,” vị đại diện cho biết.


“Trong khi đó, lượng tiêu đưa ra bán tăng lên do nhiều thương lái bán tháo khiến giá tiêu liên tục giảm”.


Về mì gói và bánh tráng, đại diện Công ty Xuất nhập khẩu Thực phẩm Duy Anh tại TP.HCM cho biết sản lượng xuất khẩu giảm mạnh khoảng 30% so với kết quả tốt nhất năm ngoái. Lượng xuất khẩu sang châu Âu sụt giảm mạnh nhất.


“Do lượng tiêu thụ chậm, nhiều đối tác đã đề nghị lùi thời gian nhận hàng, thường là từ hai đến ba tháng”.


Giảm quy mô lực lượng lao động, tìm kiếm thị trường mới


Theo ông Nguyễn Văn Khánh, Hiệp hội Da giày Thành phố Hồ Chí Minh, việc giảm chi phí là yếu tố sống còn. Doanh nghiệp có thể xem xét cắt giảm lực lượng lao động hoặc giảm giờ làm việc của người lao động bằng cách yêu cầu họ làm việc theo ca và được nghỉ cuối tuần.


Ngoài ra, các công ty nên nhanh chóng tìm kiếm các thị trường mới, chẳng hạn như Châu Phi và Trung Đông.


Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phó tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam, cho biết với dân số 100 triệu người, thị trường nội địa rất tiềm năng và doanh nghiệp nên tận dụng.


Ngoài ra, nên khai thác các thị trường được ưu đãi thuế như Châu Âu và các thị trường lân cận như khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản, Hàn Quốc.


“Với cách tiếp cận phù hợp, các doanh nghiệp trong nước có thể giải quyết đơn hàng giảm trong năm nay và chuẩn bị cho khả năng tăng đơn hàng trong năm tới”, bà Mai nói.


“Tuy nhiên, về lâu dài, họ nên tăng cường tự động hóa trong sản xuất để giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh vì khách hàng đang quan tâm nhiều hơn đến giá thành sản phẩm”.


Nguồn: Internet


Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, các doanh nghiệp nên hạn chế đầu tư, giảm quy mô hoạt động, ưu tiên hàng hóa có nhu cầu cao, giá cả cạnh tranh.


Hoa Kỳ và Châu Âu có những mùa cao điểm và thấp điểm để nhập khẩu hàng Việt Nam.


Ngoài ra, với thời hạn sử dụng của sản phẩm kéo dài từ hai đến ba năm, doanh nghiệp cần chú ý đến quá trình chế biến chuyên sâu để duy trì sản xuất và giảm bớt sự phụ thuộc vào người mua.


Nhiều công ty đóng cửa nhà máy, sa thải công nhân


Vào cuối tháng 10, nhiều công ty có từ 100 đến hơn 1.000 nhân viên từng tuyên bố đóng cửa nhà máy và cho nhân viên bị sa thải, với lý do thiếu đơn đặt hàng.


Anh Nguyễn Ngọc Nhân, 40 tuổi, công nhân Công ty TNHH Ta Shuan, ở Khu công nghiệp Tân Tạo, cho biết, công ty anh đóng cửa từ ngày 5/11 nên công nhân ế ẩm.


“Tôi đã làm việc cho công ty được 20 năm. Những tưởng mọi chuyện sẽ ổn định sau đại dịch COVID-19, nhưng giờ tôi nhận được bao tải và tôi không biết phải làm gì tiếp theo ”, anh Nhân nói.


Hơn ba tháng qua, công ty không yêu cầu công nhân làm thêm giờ mà cho họ nghỉ cuối tuần, thậm chí làm bốn ngày một tuần.


Theo thông báo của Công ty TNHH Ta Shuan, khách hàng của họ đã tạm dừng hoạt động và không đặt hàng nên Ta Shuan gặp khó khăn về tài chính và yêu cầu công nhân nghỉ không lương trong 3 tháng.


Tương tự, Công ty TNHH giày Footgearmex ở quận Bình Tân, TP.HCM đã công khai việc chấm dứt hợp đồng lao động với gần 1.200 lao động từ ngày 1/12 do thiếu đơn hàng. Công ty đã áp dụng tất cả các giải pháp có thể nhưng không giải quyết được khó khăn.


Cố gắng giúp đỡ người lao động


Chị Cao Thị Huỳnh Giao, công nhân Công ty TNHH Vexos Việt Nam tại Khu chế xuất Tân Thuận, quận 7, cho biết do đơn hàng giảm sút, không thể làm thêm giờ nên lương tháng của chị giảm từ 9 - 10 triệu đồng ( $ 362-402) đến hơn 6 triệu đồng ($ 242).


Tuy nhiên, Giao vẫn có việc làm. Nhiều công nhân khác đã mất việc làm do nhiều công ty ngừng hoạt động hoặc tạm ngừng dây chuyền sản xuất do thiếu đơn đặt hàng.


Nguyễn Huỳnh Thanh Sơn, phó trưởng nhóm sản xuất của công ty, cho biết anh quản lý bốn dây chuyền lắp ráp phụ kiện nhưng chỉ có ba dây chuyền đang được vận hành.


Công nhân trong dây chuyền bị đình chỉ phải tạm thời đảm nhận các công việc khác.


Theo lãnh đạo công ty, đơn hàng giảm và thiếu phụ kiện nhập khẩu đã buộc nhà máy phải điều chỉnh sản xuất và cắt giảm giờ làm thêm.


Nếu bất kỳ công nhân nào bỏ việc, nhà máy sẽ trả lương cơ bản cho họ trong hai tháng và tuyển dụng lại khi số lượng đơn đặt hàng tăng lên.


Số công nhân còn lại sẽ tăng ca để cải thiện thu nhập.


Trong khi đó, một đại diện của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Bình Dương hôm thứ Tư nói với Tuổi Trẻ rằng trong số 800.000 lao động làm việc cho các doanh nghiệp có liên đoàn lao động, có tới 240.000 lao động, tức 30%, phải nghỉ thứ Bảy hoặc làm việc. mỗi ngày khác.


Tình trạng thiếu đơn hàng diễn ra ở các doanh nghiệp chế biến gỗ, da giày, may mặc.


Tuy nhiên, một số doanh nghiệp có kế hoạch giảm quy mô sản xuất nhưng vẫn cố gắng trả lương cho người lao động.


Công ty TNHH Chí Hùng với khoảng 10.000 lao động tại thị xã Tân Uyên có kế hoạch tạm ngừng làm việc tám ngày mỗi tháng trong vòng ba tháng, từ tháng này đến tháng 1 năm 2023. Công ty sẽ vẫn trả cho nhân viên của họ khoản tiền trợ cấp thôi việc là 180.000 đồng (7,2 đô la) cho mỗi người. ngày.


Công ty TNHH Công nghiệp Shyang Hung Cheng ở thành phố Thuận An có kế hoạch ngừng hoạt động sáu ngày mỗi tháng bắt đầu từ tháng này. Một số đơn vị của công ty sẽ không làm việc từ 8 đến 20 ngày mỗi tháng.


Tuy nhiên, nhân viên vẫn được hưởng 196.000 đồng (8 đô la) mỗi ngày.


Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bình Dương sẽ phối hợp với các sở, ban, ngành để hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.


Nguồn: Tuoi Tre News

bottom of page